1. NGUỒN GỐC ÐAU KHỔ
Thông thường, đau khổ và sự dữ thường đi đôi với nhau. Khi nói đến đau khổ là người ta nghĩ ngay tới chuyện chẳng lành, chẳng ai muốn. Nếu đau khổ là chuyện không ai mong đợi thì nguồn gốc của nó ắt phải là cái làm người ta sợ hãi, tránh né. Và, không nói thì ai cũng đã biết: ông Trời vừa là người được ca tụng hết lời khi mọi sự suông sẻ vừa là người bị kêu trách đổ lỗi khi chuyện không như mong đợi xảy đến. Tắt một lời, người ta vẫn coi Trời là nguyên nhân mọi sự.
* Một vài suy tư và cách hoá giải đối với sự dữ và đau khổ
Về cơ bản, sự dữ là khiếm khuyết sự thiện. Chúng ta cùng xét một vài suy tư và cách hoá giải về vấn đề sự dữ sau:
Thánh Iraneus thì đưa ra lập trường: Theo kế hoạch của Thiên Chúa, thế giới này phải là một môi trường để con người có thể đạt tới tầm vóc sung mãn của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Sự phát triển của con người cần một quá trình lâu dài trong một môi trường thích hợp. Môi trường ấy là thế giới hỗn hợp cả thiện lẫn ác này. Con người sẽ sử dụng tự do của mình để hoàn thành ơn gọi của mình. Tuy nhiên, trong thực tế, việc sử dụng tự do không phải là dễ vì người ta có thể từ chối điều lành, từ chối chính Thiên Chúa; và đau khổ thường làm con người tan nát hơn, có khi đẩy họ vào bóng tối và vực thẳm nhiều hơn. Do đó, cho rằng Thiên Chúa muốn dùng đau khổ như phương tiện cần thiết để giúp con người đạt đến tầm vóc xứng đáng cũng có thể đồng nghĩa với việc cho rằng Người trực tiếp dính líu vào sự dữ mà gây đau khổ cho con người. Vậy, giải pháp này không hoàn bị.
Còn quan điểm của Thánh Augustine mang tính chất loại suy thẩm mỹ, nghĩa là thế giới này giống như một bức tranh. Những điểm tối, những nét vẽ nguệch ngoạc vô duyên là những thứ cần thiết để làm nên một bức tranh. Nếu ta nhìn thế giới này một cách tổng thể, toàn diện, ta sẽ thấy chính nhờ những đường nét chẳng ra gì đó mà bức tranh tuyệt đẹp. Sự dữ, đau khổ cũng giống như thế. Chúng hữu ích cho một tổng thể hài hoà của thế giới. Tuy nhiên, quan điểm này trái ngược với lập trường căn bản Kitô giáo: mục đích không thể biện minh cho phương tiện. Không thể cho phép dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt. Ví dụ: không thể chấp nhận việc diệt chủng người Do Thái để có được một dân tộc siêu nhân của Hitler, không thể ra sức phá thai hay áp dụng phương cách an tử vì sợ nạn nhân mãn, …
Theo Thánh Thomas Aquinas, sự dữ không phải là một hữu thể đúng nghĩa vì hữu thể thì duy nhất, chân thực, tốt và đẹp. Sự dữ là một khiếm khuyết trong hữu thể, là mặt trái của hữu thể tốt lành. Ví dụ: tình trạng mù loà của con người là một khiếm khuyết thể lý (vì thế mà gọi là khiếm thị); hay tình trạng tội lỗi của con người là do khiếm khuyết trong hành vi nhân linh vì không quy chiếu và tuân thủ quy luật tâm lý. Nói sự dữ là khiếm khuyết thì không có nghĩa nó chỉ là ảo ảnh vì nó vẫn tồn tại rất thực trên thế gian này. Tiếp đến, Thiên Chúa là nguyên nhân và cội nguồn của mọi hữu thể nên Người sung mãn sự tốt lành và nơi Người không hề có khiếm khuyết nào. Sự dữ và sự lành không thể phát xuất từ cùng một nguyên nhân. Cho nên, Thiên Chúa không thể nào là nguyên nhân của sự dữ.
* Phân loại
Nói chung, có hai loại sự dữ làm phát sinh hai loại đau khổ cũng theo các phương diện tương ứng: sự dữ hiện sinh hay vật lý và sự dữ luân lý hay tinh thần. Một cách tổng quát, sự dữ vật lý gồm thiên tai, thảm họa do các định luật thiên nhiên, bệnh tật,…; sự dữ tinh thần là do việc con người sử dụng tự do của mình một cách sai lầm hay lạm dụng. Theo Giovanni Martinetti, không nên lầm lẫn giữa hai loại sự dữ này. Chúng là hai loại sự dữ và đau khổ hoàn toàn khác biệt nhau. Trong thực tế, nhiều trường hợp cụ thể về đau khổ hàm ẩn cả hai loại trên. Bây giờ chúng ta cùng xem xét chi tiết hơn từng loại.
1.1 Sự dữ hiện sinh hay vật lý
Thiên nhiên vận hành được là nhờ có các định luật mà Thiên Chúa thiết lập để điều khiển nó. Ðịnh luật thiên nhiên là yếu tố chính làm cho vũ trụ vật chất được trật tự. Con người càng khám phá ra nhiều định luật như vậy thì càng tăng cường khả năng làm chủ của mình. Tất nhiên vẫn còn nhiều điều mà con người cần khám phá.
Bất cứ một hữu thể nào, khi xét trong chính nó, đều là tốt là đẹp là chân thiện. Chỉ khi nó được xem xét trong mối liên hệ với những cái khác, nhất là với con người, nó mới bắt đầu khoác vào bộ áo của sự thiện hay sự dữ, có lợi hay có hại. Lúa và cỏ không hơn thua nhau về mặt hữu thể nhưng trong mối liên hệ với lợi ích của con người thì lúa cần được chăm sóc còn cỏ phải bị tiêu diệt. Một con vi khuẩn trong chính nó là một hữu thể tốt đẹp nhưng khi nó chui vào cơ thể con người và gây ung thư thì nó là kẻ thù tàn ác nhất. Tắt một lời, chính trong tương quan với lợi ích của con người mà một hữu thể được xem là “thiện” hay “dữ”.
* Bản chất định luật tự nhiên
Khai triển trong cùng một ý nghĩa như vậy, định luật tự nhiên cũng là một thực tại có hai mặt: có ích và có hại, nghĩa là nó có khiếm khuyết trong mối liên hệ với lợi ích con người. Sự dữ vật lý chính là biểu hiện mặt bất toàn của nó. Chúng ta thử lấy một vài ví dụ: + sấm sét một mặt làm cho không khí giàu khí Nitrogen để giúp cây cối phát triển, mùa màng tươi tốt nhưng mặt khác cũng có thể đánh cháy nhà, gây chết người; + không có định luật vạn vật hấp dẫn thì sẽ chẳng có gì chịu ở yên một chỗ và tất cả sẽ bay lơ lửng hỗn độn trong không trung. Con người không thể xây nhà dựng cửa, trồng cây tỉa trái, điều khiển xe cộ,… nếu không có hấp lực trái đất. Nhưng cũng vì định luật ấy mà nữ tu N.H. tử nạn khi trượt chân té xuống từ cầu thang, anh V.L. bị chấn thương sọ não khi một hòn đá rơi xuống từ miệng giếng một buổi sáng năm 1998,… + nếu không có định luật quán tính thì chiếc xe của tôi sẽ lập tức ngừng chạy khi tôi dừng tay ga và không biết tôi sẽ phải mất bao nhiêu tiền để mua xăng; nhưng cũng vì nó mà có lần tôi đã đâm sầm vào một cửa hiệu bên vệ đường khi thắng không ăn. Như thế, cuộc nhân sinh của chúng ta cùng một lúc kinh nghiệm cả hai mặt xem ra mâu thuẫn của cùngmột thực tại. Trớ trêu thay, chúng ta không thể chọn mặt này bỏ mặt kia được vì các định luật tự nhiên hiện hữu và hoạt động độc lập với ý chí của con người. Ðịnh luật tự nhiên tự bản chất không có lý trí, không phân biệt thiện ác theo các tiêu chuẩn luân lý của con người. Chúng có đó cho trật tự của một vũ trụ khách quan. Bất cứ ai sống trong vũ trụ ấy đều phải chịu sự chi phối giống nhau của chúng. Ðịnh luật tự nhiên không dành riêng cho ai, không biết phân biệt người nào tốt để sinh ích lợi, người nào xấu để giáng tai họa. Hẳn nhân loại sẽ còn nhớ mãi trận đại dịch Black Death đã quét qua Châu Âu và Châu Á hồi thế kỷ XIV và cướp đi sinh mạng của hơn một phần tư dân số ở các vùng bị dịch. Vi trùng dịch chẳng hề biết phân biệt ai là vua chúa, ai là tu sĩ, ai là chúng dân đâu. Bất cứ ai ở trong vùng dịch không đủ sức đề kháng là bị dịch. Hay như trường hợp thương tâm của thằng bạn tôi chết tan thây dưới giếng vì kíp nổ bị chập điện, típ thuốc nổ chỉ biết nổ tung những gì chung quanh nó chứ không biết đâu là bạn tôi đâu là đất đá.
Rõ ràng, định luật tự nhiên được thiết lập cho mục tiêu to lớn là điều khiển vũ trụ này cho có trật tự nhằm đem lại lợi ích cho con người, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số trục trặc gây ra những “sự dữ” cho con người. Ðiều này góp phần giải thích tại sao người này gặp rủi ro trong khi kẻ khác lại may mắn, và cách nào đó giúp “minh oan” cho Thiên Chúa trong nhiều trường hợp. Tôi không bao giờ quên trường hợp của chị Hanh ở Texas như đã một phần đề cập ở trong I. Lúc tôi viết chương I là lúc bác sĩ cho biết căn bệnh ung thư của chị đã ở vào giai đoạn cuối. Còn lúc tôi đang viết những dòng chữ này là lúc chị đã về với Chúa được hai tuần rồi. Những lời nói như vừa trách móc vừa tức giận vừa bế tắc của chồng chị hôm nào vẫn vang dội trong đầu tôi: “Tại sao Chúa lại thử thách tôi quá sức như thế này?…”. Lúc ấy, mặc dù xác tín vào tình thương của Thiên Chúa nhưng tôi thật sự bối rối vì bản thân tôi cũng mang một tâm trạng như anh. Trong thâm tâm mình, tôi cũng đang hỏi Chúa câu hỏi của anh.
Ðến nay, cái nhìn của tôi về đau khổ đã khác. Tôi biết căn bệnh ung thư ác tính của chị Hanh là do sự bất toàn của thân phận thọ tạo, do sự trục trặc của định luật tự nhiên. Bây giờ, tôi không những xác tín vào tình yêu của Chúa dành cho tất cả mọi người, không phân biệt họ là ai, thế nào, mà còn dám khẳng định rằng Chúa không gửi đau khổ đến cho con người. Khẳng định này là kết quả của nhiều năm lặn lội tìm kiếm, học hỏi, thao thức và kinh nghiệm của bản thân tôi. Tôi muốn quả quyết với những ai đang mang gánh nặng nề trên đời rằng: Thiên Chúa không gửi đau khổ cho chúng ta. Có người nói: nhưng bạn có thể trách Thiên Chúa là Người đã tạo ra vũ trụ này, trong đó có bạn. Thoạt nghe thì có lý nhưng thực ra là người ấy đi từ một giả thiết không được minh chứng cho rằng từ bao ngàn năm nay, với bao nhiêu lỗi lầm nặng nề, con người đã không hề phá hỏng đi chút nào vũ trụ mà Thiên Chúa đã sáng tạo cho họ. Quả thật, cho đến ngày nay có thể nói con người đã can thiệp vào thiên nhiên khá sâu và làm nó biến đổi rất nhiều, trong đó có những biến đổi tiêu cực lắm khi đã dẫn đến các tai ương cho chính con người.
1.2 Sự dữ tinh thần hay luân lý
Trong thế giới này ta không chỉ gặp những sự dữ và đau khổ do sự bất toàn của định luật tự nhiên. Ta còn gặp phải một thứ sự dữ khác xuất phát từ từ việc làm ý thức và tự do của con người, tức là những hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của tự do con người. Loại sự dữ này được gọi là sự dữ tinh thần hay sự dữ luân lý. Quan sát kỹ một chút, ta cũng dễ nhận ra rằng ít là phân nửa những tai hoạ từng xảy đến cho con người là do chính con người tạo nên qua tội lỗi của mình. Bernanos có lần nhấn mạnh: “Xì-căng-đan của thế giới không phải là khổ đau, mà chính là tự do. Thiên Chúa đã dựng nên thụ tạo tự do, đó là xì-căng-đan lớn nhất bởi vì mọi xì-căng-đan khác đều xuất phát từ đó.” Tự do là cái làm cho phẩm giá con người được trọn vẹn và nâng cao vị thế của con người trước vũ trụ. Ðó là nét cao quý của tự do. Nhưng tự do cũng tạo ra bao nhiêu nghiệt ngã kể từ khi con người sử dụng nó một cách đồi bại. Ðó là cái thê thảm của tự do. Lịch sử đã trưng ra những sự dữ và đau khổ vượt ra ngoài sức tưởng tượng của ta. Bóng tối sự dữ trong con người là một điều có thật và rất khủng khiếp. Nó lan toả trên cả hai bình diện vi mô và vĩ mô.
Trên bình diện vi mô, bóng tối ấy tồn tại nơi hành vi cá nhân như ghen tương, đố kị, gây gổ, hận thù, phản bội, ngoại tình, thủ đoạn,… Tôi vẫn không thể nào hiểu được chuyện một đứa con có thể giết chết mẹ ruột để lấy mấy chỉ vàng, chuyện những “bà mẹ” (nếu có thể gọi như vậy vì họ là người sinh con) bẻ gãy chân tay con nhỏ để đánh vào lòng trắc ẩn của kẻ bố thí, chuyện bọn lính Khmer đỏ dùng lá thốt nốt cắt cổ viên bác sĩ hằng mấy ngày liền cho đến chết, các tệ nạn xã hội và tội phạm như ma tuý, mại dâm, cướp của người khác, … vân vân và vân vân. Cứ mở các nhật báo ra, ta sẽ rõ ngay những gì đang nói đến.
Trên bình diện vĩ mô, sự dữ luân lý biểu hiện còn kinh khủng hơn nhiều: cuộc thảm sát 6 triệu người Do Thái của Hitler và Ðức quốc xã, nạn diệt chủng của Khmer đỏ, nạn thanh trừng sắc tộc ở Rwanda, sự áp đặt ý thức hệ chà đạp con người, sự đàn áp tự do tôn giáo nơi các chế độ độc tài, nạn khủng bố mang tính toàn cầu, chiến tranh phi nghĩa,…vân vân và vân vân.
Làm sao có thể kể hết được những sự dữ do con người gây nên cho chính đồng loại. Chỉ có một điều chắc chắn có thể khẳng định là: Thiên Chúa tình yêu không thể nào tạo ra những thứ đau khổ ấy. Khẳng định này dựa trên chính bản chất của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16) và không phải mọi sự đều xuất phát từ Thiên Chúa (1Ga 2,16).
a. So sánh hai loại đau khổ
Sự dữ nào cũng làm cho con người đau khổ. Dù vậy, xem ra sự dữ tinh thần hay luân lý để lại nỗi đau dai dẳng hơn sự dữ vật lý hay hiện sinh.
Sự dữ vật lý có thể làm cho con người bị khuất phục hay cảm thấy bất lực tạm thời. Ðứng trước thiên tai, tai nạn do định luật tự nhiên, con người sẽ tìm cách nghiên cứu, khắc phục và cuối cùng tiến đến việc làm chủ thiên nhiên. Chẳng hạn căn bệnh Sida hằng ngày vẫn cướp đi nhiều sinh mạng, tạm thời chưa có thuốc chữa, nhưng con người đang ngày đêm miệt mài tìm kiếm phương thuốc đặc trị. Hy vọng và quyết tâm trong việc tìm ra thuốc chữa Sida hôm nay cũng cao như những lần con người đối diện với những căn bệnh nan y khác trong quá khứ. Một cách nào đó, sự dữ vật lý góp phần làm cho con người tiến phát và vươn lên khẳng định vai trò “đặt tên” của mình để làm chủ thiên nhiên.
Trong khi đó, sự dữ luân lý là sự xuống cấp, huỷ hoại từ bên trong con người. Ðứng trước thảm cảnh do con người gây ra, chúng ta nhiều khi không thể làm thế nào ngoài việc xót xa, đau đớn, xấu hổ cho kiếp người tội lỗi này. Làm gì đây khi loài người giết hại lẫn nhau? Nói gì đây khi ai cũng có lương tâm và tự do để hành động? Ai đã một lần đến trại tập trung Auswichtz vào mùa đông sẽ không thể hiểu tại sao người ta (Ðức quốc xã) có thể độc ác đến như vậy. Tiến sĩ Diana Trafley, giảng viên Ðại học Công Giáo Seton Hall bang New Jersey, có lần kể cho tôi nghe về các lò hơi ngạt dùng để giết người Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ 2 tại Ðức. Bà nói: “Tôi đau đớn và không thể hiểu nổi sự tàn nhẫn của Ðức quốc xã. Nhà ở của các sĩ quan Ðức chỉ cách trại tập trung chừng hơn cây số. Những viên sĩ quan trông bề ngoài rất bình thường ấy, ban ngày, vào trại “làm việc” bằng cách hành hạ và giết chóc những con người khác cũng có cùng dòng máu đỏ, có tình cảm, có ước mơ, có tình yêu, có quyền được sống như họ. Tối đến, họ trở về gia đình vui vẻ với vợ với con mình – những người chẳng khác gì những kẻ bị họ hành hạ ban ngày. Hôm sau, họ lại tiếp tục “công việc” tra tấn và giết chóc. Cứ như vậy. Không thể hiểu nổi…”
Tóm lại, sự dữ luân lý làm cho con người trở thành biến chất, phi nhân. Ðau khổ luân lý là một điều khốn nạn cho loài người.
Ngoài ra, chúng ta cũng quan sát thấy hiện tượng “pha trộn” cả hai loại sự dữ nói trên ngày càng trở nên phổ biến. Ðau khổ của con người hôm nay có một phần lớn là hậu quả của cả sự dữ vật lý và sự dữ luân lý. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong các thảm hoạ sinh thái như hạn hán, lũ lụt, hiệu ứng nhà kính, mất mùa,… có sự dính dáng của con người. Chính con người chứ không ai khác chặt phá cây, đốt rừng, thải khí công nghiệp vào không trung một cách vô tội vạ gây lủng tầng ozone,… Có lẽ con người đã can thiệp quá xa, quá thô bạo và vô trách nhiệm vào thiên nhiên khiến thiên nhiên bắt đầu quay lại chống lại con người. Cho nên người ta đang ngày càng thấm thía câu nói có vẻ nghịch lý “You kill nature, you die” (Bạn giết thiên nhiên, bạn chết). Tất nhiên, điều này cũng kéo theo bao nhiêu vấn đề về sức khoẻ, bệnh tật,… mà hàng trăm căn bệnh đang là một thể hiện cụ thể.
b. Vai trò của đau khổ
Nói chung là không ai trên đời này lại thích đau khổ. Tuy vậy, đau khổ không phải là hoàn toàn vô ích và chỉ gây ra những hậu quả tiêu cực. Thực tế cho thấy có những thái độ khác nhau khi con người đối diện với khổ đau. Có những người đã bị đè bẹp bởi đau khổ nhưng cũng có không ít người đã can đảm đè bẹp nó và vượt qua “số phận”. Khía cạnh thứ hai này sẽ được khai triển thêm ở các phần sau. Ở đây, chỉ xin được vắn gọn dùng lại khẳng định của Thánh Thomas Aquinas: Thiên Chúa tốt lành không làm ra sự dữ xét như hữu thể, nhưng khi sự dữ xảy ra, Thiên Chúa có thể làm cho điều tốt lành xuất phát từ trong sự dữ. Và đó chính là sự tốt lành của Thiên Chúa vậy. Từ đó, đau khổ không phải bởi Thiên Chúa, nhưng khi nó xuất hiện, Người có thể biến nó thành ích lợi cho ta theo cách của Người. Chẳng hạn, khi ta gặp tai nạn xe cộ, Thiên Chúa có thể lợi dụng chính biến cố sự dữ ấy mà làm cho ta biết cẩn thận hơn. Tuy nhiên, phải hết sức thận trọng trong việc quả quyết đâu là ý Chúa, vì nhiều lúc đó chỉ là ý ta “đổ thừa” cho Chúa mà thôi.
c. Thuyết định mệnh
Không hiếm khi chúng ta nghe những câu đại loại như: “Thôi, không có gì xảy ra ngoài ý Chúa đâu”, “Chúa an bài mọi sự rồi”, “Ðó có thể là hình phạt Chúa dùng để cảnh tỉnh, răn đe hay để bạn đền tội ở đời này”, “Ðó có thể là thánh giá Chúa gửi đến để bạn nên giống Người hầu lập công trạng cho đời sau. …”. Ðây là các thái độ hay phản ứng thường thấy khi đau khổ. Tuy vậy, theo lập trường Kitô giáo, tất cả các câu trên đều sai lầm. Chúng ta thử phân tích một chút.
Trước hết, thái độ “Thôi, không có gì xảy ra ngoài ý Chúa đâu”. Có người vì muốn bảo vệ cho quyền năng như một “thế giá” của ông Trời mà quy tất cả mọi sự cho Trời. Họ lập luận rằng Thiên Chúa là Ðấng toàn năng và không có gì xảy ra ngoài ý Chúa cả. Quan niệm này thuộc loại quy thần theo não trạng Cựu Ước của dân Do Thái: họ tin rằng Thiên Chúa là nguyên nhân của tất cả mọi sự, cả tốt lẫn xấu. Không có sự gì xảy ra ngoài ý Thiên Chúa. Thử lấy một vài ví dụ:
“Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có
Người hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao”….
“Con câm miệng chẳng nói chẳng rằng,
vì chính Chúa đã làm như vậy.
Xin Ngài thôi đừng đánh con nữa,
tay Ngài giáng xuống, thân này nát tan….”(Tv 39, 10-11)
Có lẽ minh chứng rõ ràng cho quan niệm này của Cựu Ước được diễn tả trong thời hiện đại là lá thư của Jossel Raschower, một tù nhân Do Thái, cất giấu trong một cái chai trước lúc chết trong trại giam của Hitler năm 1943. Oâng viết: “Nếu sau này có người tìm được lời tuyên xưng này, có lẽ họ sẽ biết tâm tình của một người Do Thái, của một trong hàng triệu người Do Thái đã chết, một người Do Thái bị Thiên Chúa bỏ rơi mặc dù họ tin tưởng mãnh liệt vào Người…Ðây là lúc Ðấng Toàn Năng quay mặt đi, không nhìn đến những kẻ kêu van Người. Thiên Chúa đã ẩn mặt khỏi thế gian… Người cứ việc đối xử lạnh nhạt với tôi như Người đã đối xử với hàng triệu người khác trong dân tộc tôi; tôi không phải là một luật trừ và tôi không mong chờ Người lưu ý đến tôi… Tôi tin vào Thiên Chúa của Israel cho dù Người đã làm hết cách đập tan đức tin của tôi…Tôi chết một cách bình an nhưng không toại nguyện; tôi chết, lòng đầy niềm tin nhưng không van lơn cầu khấn. Tôi theo Chúa cả khi Người xua đuổi tôi…”
Trong quan niệm về Thiên Chúa như thế, có một cái gì đó không ổn khi áp dụng vào đời sống hằng ngày vốn có rất nhiều nghịch lý. Người ta sẽ không thể hiểu được chuyện Thiên Chúa là Ðấng yêu thương vô bờ bến, tha thứ bất cứ tội lỗi nào của con người cùng một lúc lại sẵn sàng “trừng phạt người ta đến ba bốn đời” vì là Ðấng “công bằng” tuyệt đối. Trong trường hợp ấy, khi đối diện với nghịch lý bi đát, người ta chỉ còn biết cắn răng chịu vậy vì Chúa muốn như thế. Ở đây lại đụng đến vấn đề đau khổ, một vấn đề không ai không có kinh nghiệm nhưng lại không có giải đáp thoả đáng. Nói như thế bao hàm Thiên Chúa mâu thuẫn với chính mình vì Người vừa tốt lại vừa xấu, vừa bao dung lại vừa chấp nhất vụn vặt. Hiển nhiên, điều này trái ngược hoàn toàn với niềm tin Kitô giáo vào một Thiên Chúa tốt lành yêu thương vô cùng, nơi Người không hề có chút xấu xa nào. Truyền thống luôn khẳng định rằng: Thiên Chúa làm được mọi điều Người muốn. Thiên Chúa muốn gì? Qúa rõ, Thiên Chúa muốn điều tốt điều lành. Bản chất Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16) nên điều Người muốn cũng phải xuất phát từ tình yêu. Thế còn những điều Thiên Chúa không muốn thì sao? “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống” (Ed 33,11; 18,23), “Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết-sấm ngôn của Ðức chúa là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống”(Ed 18,32) . Thiên Chúa vốn tốt lành vô cùng loại trừ mọi tội lỗi nhưng lại khoan dung với tội nhân. Thánh Phaolô quả quyết: “Ðức Kitô đã chết cho chúng ta, ngay khi khi chúng ta còn là tội nhân; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5,8). Chỗ khác, Kinh Thánh lại cho biết “Ta muốn lòng nhân chứ không cần của lễ….” (Hs 6,6).v.v… Như thế, điều Thiên Chúa không muốn là điều đi ngược lại với tình yêu của Người. Tình yêu không đem đến sự dữ và đau khổ nên sự dữ và đau khổ là điều nghịch lại ý muốn của Người. Luận chứng này loại trừ quan niệm cho rằng sự dữ và đau khổ nằm trong ý định của Thiên Chúa. Tóm lại, Thiên Chúa không muốn và không làm điều xấu và nơi Thiên Chúa không có bóng dáng của sự dữ, ngay cả chỉ trong ý định của Người.
Người ta vẫn hay nói: “đó là ý Chúa”. Nhưng ai là người biết chắc ý Chúa trong khi khả năng “suy bụng ta ra bụng Chúa” là điều hòan tòan có thể, thậm chí rất hay gặp là đàng khác? Hình như con người xưa nay vẫn thích… ‘làm Chúa”.
Thứ hai, “Thiên Chúa an bài mọi sự” là một sai lầm tai hại. Giáo lý Công Giáo không dạy rằng Thiên Chúa an bài nhưng là Thiên Chúa quan phòng. Cần phải phân biệt thật rõ hai hạn từ này. An bài có nghĩa là tiền định, mọi sự đã được “lên chương trình” và phải xảy ra đúng như vậy khi đến thời đến buổi. Người ta làm gì thì làm cũng không tránh khỏi số phận. Nói Thiên Chúa tiền định hay an bài vì có thể có nhiều trường hợp người ta không tìm được nguyên nhân hay lý do của sự việc nên chỉ còn cách gán nó vào ‘kế hoạch của ông Trời’. Tuy nhiên, điều này vi phạm hai nguyên tắc căn bản sau: 1) Tiền định là có phần xảy ra trước có phần xảy ra sau, tức là lệ thuộc vào diễn tiến thời gian trong khi Thiên Chúa không bao giờ lệ thuộc thời gian, Người vượt lên trên và làm chủ thời gian, 2) con người có tự do và Thiên Chúa tôn trọng tự do ấy tới cùng đến nỗi đã để cho con người sử dụng tự do ấy để giết chết Con Một của Người. Vì vậy, cho rằng Thiên Chúa tiền định là phá huỷ tự do của con người mà chính Ðức Giêsu đã tôn trọng, và cách nào đó là chấp nhận thập giá để bảo vệ đến cùng. Phẩm giá và vị thế con người chỉ có được khi con người có tự do để quyết định cho cuộc đời của mình. Không có tự do đích thực thì con người, vốn là “hình ảnh của Thiên Chúa”, chẳng khác gì một cái máy, thậm chí thua kém một con vật vì nó còn biết “tháo cũi sổ lồng” chứ không cắn răng chịu đựng mọi bề.
Thứ ba, “Ðó có thể là hình phạt Chúa dùng để cảnh tỉnh, răn đe hay để bạn đền tội ở đời này”. Ðây cũng là một quan điểm có tính cách quy thần của niềm tin Cựu Ước mà ta gặp thấy ở một số nền văn hoá Á Ðông: “ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ” theo nghĩa tất cả mọi sự xảy ra đều do ý Chúa (ý Trời), nếu tôi gặp may mắn là do Chúa thưởng công vì tôi sống tốt, nếu tôi gặp tai hoạ là do Chúa trừng phạt vì tôi tội lỗi. Hoá ra tương quan của Thiên Chúa và con người chỉ là thưởng phạt theo công tội? Như thế thì vận mạng của con người thật bi đát, con người thua kém xa so với thú vật vì thú vật ít ra chẳng bao giờ phạm tội và chẳng lo phải bị xuống hoả ngục. Quan niệm về Thiên Chúa dựa trên công tội như thế sẽ không thể nào lý giải được con đường thập giá của mà Thiên Chúa đã chọn để thể hiện mình. Nếu Thiên Chúa cứ ‘sòng phẳng’ kiểu đó thì có lẽ Ngôi Hai chẳng xuống thế làm người, sống một cuộc đời gian khổ, chịu chết và phục sinh làm gì cho mệt, cũng như chẳng có người nào còn đáng sống trên thế gian này vì tội lỗi của mình.
Linh mục Bửu Dưỡng viết: “không bao giờ Thiên Chúa lại muốn cho ai khải đau khổ, không bao giờ Ngài làm hại ai, cần phải giữ cho khỏi lầm Ngài với hạng quỷ thần, hay là ác thần, chỉ sẵn sàng chờ dịp làm hại người ta, có khi lại trả thù cách này cách khác. Có những nhà tôn giáo muốn tôn trọng uy quyền Thượng đế, vô tình mà kể Ngài như hạng quỷ thần, bênh vực riêng những ai có cúng tế thờ lạy Ngài, và ai không làm những việc đó thì Ngài bắt đau khổ cách này hay cách khác, khiến cho có người lầm Ngài cần việc đó và Ngài cũng tư vị những kẻ nào biết dua nịnh mua chuộc Ngài….Thực ra, có những điều người ta không hiểu, không thể giải thích được, rồi đem Trời, đem Thượng đế ra mà giải thích theo ý mình có khi rất phản ngược với thánh ý của Ngài, và làm cho nhiều người không còn tin kính tôn thờ Ngài, thì những tội đó không phải là nhỏ!”
Thứ tư, “Ðó có thể là thánh giá Chúa gửi đến để bạn nên giống Người hầu lập công trạng cho đời sau. …”. Ðây là những lời có tính bình dân an ủi những ai đau khổ của một số tín hữu ‘đạo đức’. Nhưng ‘đạo đức’ kiểu này lại hết sức tai hại vì nó tạo nên một thứ “nhân đức chịu vậy”: thôi thì đó là ý Chúa muốn tôi đau khổ, dù tôi không muốn tôi cũng chỉ còn cách “ngậm bồ hòn làm ngọt”, biết làm sao bây giờ?!
Một lần nữa, sự nhập thể và nhập thế của Ðức Giêsu cho thấy quan niệm như vậy về Thiên Chúa là sai lầm. Cả cuộc đời của Ðức Giêsu là một cuộc đồng hành, liên lụy với con người qua mọi biến cố đời sống để giải phóng con người không những khỏi các đau khổ, đổ bể vì tội lỗi mà còn cả các đau khổ về thể lý nữa (chữa bệnh, xua trừ tà thần, bênh vực tội nhân, giảng dạy chân lý, loan truyền tin mừng tình yêu,…), nghĩa là giải phóng tòan diện con người. Chúa biết kiếp người yếu đuối, lầy lội, tệ hại như thế nào nên mới chung chia thân phận với họ để mang khổ, gánh tội thay cho họ. Thiên Chúa không thể mâu thuẫn với chính mình khi một đàng liên lụy với con người, gánh thay đau khổ cho con người, một đàng lại gửi đau khổ ngụy trang dưới hình thức đạo đức của ‘thánh giá’ đến cho họ được. Chúa chẳng cần phải gửi thêm gánh nặng cho họ làm gì nữa vì Chúa biết rõ con người mỏng manh và cần được cứu độ biết bao. Có lẽ, chúng ta cần lưu ý điều này: giá trị cứu độ trong biến cố thập giá của Chúa Giêsu không phải là đau khổ mà là tình yêu xuyên qua và chiến thắng khổ đau. Nếu muốn nói đến từ ‘thánh giá’, thiết nghĩ, thánh giá đúng nghĩa nhất là Thánh Giá của Chúa Giêsu. Một Thánh giá được biến đổi từ thập giá. Nói cách khác, trong hàng ngàn cây thập giá được dựng lên để đóng đinh tử tội, chỉ có một cây thập giá đã biến thành Thánh giá, đó là thập giá của Chúa Giêsu. Chính tình yêu Thiên Chúa liên lụy đến cùng mới biến thập giá thành Thánh giá. Thánh giá ấy là kết quả của tình yêu chứ không phải là giá trị nội tại của khổ đau, kết quả của sự dữ. Nếu muốn nói “Chúng ta được mời gọi để trở nên giống Chúa Kitô bằng cách vác thập giá của mình mỗi ngày” thì phải hiểu rằng: chúng ta được mời gọi đi vào lộ trình dấn thân theo gương Ðức Kitô để liên lụy với anh chị em mình đến mức không ngần ngại chia sẻ, gánh thay đau khổ cho họ. Trên thực tế, có một ý nghĩa khác về thánh giá có thể tạm dùng cho một vài trường hợp “Chúa gửi thánh giá để bạn trở nên trưởng thành, vững vàng hơn”. Theo tôi, ý nghĩa này hòan tòan khác biệt với ý nghĩa người ta vẫn dùng để chỉ các ‘đau khổ’ do Chúa mà người ta vẫn dùng như đã trình bày ở trên. ‘Thánh giá’ này tượng trưng cho những thách đố có tính cách thanh luyện, giúp con người lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Chúng có thể gây khó chịu, thậm chí có thể cho phép gây ra một chút ‘đau đớn’ vì thanh luyện thường đòi hỏi cắt tỉa, từ bỏ, hy sinh,… nhưng nhất định chúng không gây nguy hại cho con người. Tuy nhiên, phải hết sức cẩn thận cầu nguyện, cân nhắc trước khi áp dụng ý nghĩa này vì các biến cố thường không đơn giản như ta thấy. Tốt nhất, không nên quy gán ý nghĩa thánh giá cho các sự kiện tiêu cực.
Tóm lại, lý luận rằng Thiên Chúa gửi đau khổ đến cho con người để trở nên giống Chúa Giêsu hầu có công trạng đời sau là một lập luận không đứng vững, thậm chí có thể dẫn đến những hiểu lầm tai hại về Thiên Chúa.
d. Duyên số
Hằng ngày, nhất là khi đời sống đổ bể, “cơm không lành, canh không ngọt”, có người vẫn than thân trách phận: “Trời ơi, tại sao tôi lại gặp phải thằng chồng, (con vợ) thế này? Ông Trời phạt tôi vì tội gì đây? Số tôi đúng là số con rệp…” Tất nhiên, cuộc đời không bao giờ đơn giản như lý luận nhưng cũng xin được vắn gọn trình bày suy tư của mình ở đây.
Theo tôi, khi người ta gặp nhau trong một hoàn cảnh thuận lợi, thích hợp nào đó thì tương quan của họ được thiết lập. Các yếu tố đưa đẩy người ta đến gặp gỡ ấy có thể có nhiều: các yếu tố thuộc định luật tự nhiên, các quy luật xã hội cũng như các lựa chọn tự do của cá nhân. Hoàn cảnh gặp gỡ có tính cách lịch sử, nghĩa là cá biệt và cụ thể cho từng trường hợp riêng rẽ. Khi cuộc đời không được xuôi xắn như mong đợi hay nặng nề vượt quá sức chịu đựng hoặc các yếu tố đan xen quá phức tạp thì chẳng mấy ai đủ kiên nhẫn để ngồi đó mà tìm cho ra nguyên nhân thật của trục trặc. Và, thường thì người ta vẫn có khuynh hướng nại vào số phận và “đổ lỗi” cho ông Trời đã sắp đặt trước mọi sự. Có chạy cũng chẳng thoát. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn có thể sai lầm vì không ai biết được chính xác ý Ông Trời thế nào cả vì có ai là Ông Trời đâu. Tất cả chỉ là suy đoán hạn hẹp của con người. Ðối với tôi, trục trặc hau đau khổ trong các mối tương quan không phải do tự bản chất của mối tương quan mà do việc người ta ứng xử với nhau như thế nào. Mỗi người là một chủ thể tự do và sẽ sử dụng tự do của mình để lựa chọn cách hành xử đối với người khác. Tất nhiên, kết quả của mối tương quan sẽ tốt hay xấu, vui hay buồn, hạnh phúc hay bất hạnh, thiên đàng hay hoả ngục,… tuỳ thuộc vào cách đối xử với nhau. Bà chị họ tôi là người có nhan sắc, kén ơi là kén, chọn mãi mới được một người mà chị cho là number one. Sống với chồng được vài năm, chị bắt đầu than thân trách phận. Rõ ràng trước đây chị đã thấy mối tương quan của chị với người yêu là tốt đẹp để có thể chọn nó. Bây giờ, khi cuộc sống chung trở nên nặng nề khó thở, quả là không hợp lý lắm khi chị đổ mọi sự lên đầu Ông Trời thì , rằng Trời đã tạo ra “số phận nghiệt ngã” của chị để bay giờ chị phải khổ cực.
Theo tôi, nếu mà có cái gọi là “số” thì có lẽ cái “số Ông Trời” là bi đát nhất vì Ông là người chịu nhiều oan uổng nhất.
Kết luận: các quan niệm về định mệnh, an bài cần phải bị loại bỏ.
***
Xin mời bạn đọc tiếp phần chương 2B: VAI TRÒ CỦA THIÊN CHÚA TRONG ĐAU KHỔ, xin bấm vào link sau đây:
Leave a comment